HỌC BỔNG & TỪ THIỆN NHA TRANG KHÁNH HÒA
   
  HỌC BỔNG NHATRANG KHÁNH HOÀ
  Bài Viết Tưởng Nhớ Thầy Nguyễn Bá Mậu
 
Bài Viết
TƯỞNG NHỚ THẦY NGUYỄN BÁ MẬU


Khóc Thầy Nguyễn Bá Mậu

 

Thôi! Thôi! Thầy đã đi rồi!

Trăm năm Thầy đã trọn đời thong dong.

Kính yêu con nguyện một lòng*,

Năm mươi năm đó, dòng sông cuộc đời.

Ơn Thầy sánh tựa cù lao,

Mở mang trí tuệ cho bao nhiêu trò.

Học hành sao chẳng chịu lo?

Đây trường Văn Hóa! hát hò được sao?

Nhớ lời Thầy bảo năm nao!

Chúng con lúc ấy tào lao nực cười.

Rõ là một bọn học lười,

Cứ ưa văn nghệ hát cười ham vui.

Đâu hay Thầy vẫn ưu tư,

Lo cho cái lũ lau nhau mai này.

Bao nhiêu Thầy giỏi, Cô hay,

Thầy mời hết thảy về đây dốc lòng.

Anh văn có Thầy Nguyễn Ngân,

Văn chương tuyệt diệu Thanh Vân Duy Nhường.

Sử Địa Thầy (Nguyễn) Mậu đảm đương.

Thầy Thạch Trung Giả có nhường ai đâu!

Cô Gia Vạn Vật rất ngầu,

Pháp văn các lớp: đứng đầu Thầy, Cô.

Dạy toán Thầy Thái văn Châu,

Con Bà Tương Phố, giọt sầu lệ thu.*

Sóng lớp trước, sóng sau xô,

Bao nhiêu dâu bể cơ đồ ngã nghiêng.

Kiên tâm Thầy vững lòng riêng,

Vẫn là văn hóa ưu tiên cho đời.

Thương Thầy lận đận bên trời,

Quê hương xa tắp ngày về viễn khơi.

Nay Thầy… Thầy đã đi rồi,

Một trời tuyết trắng ngậm ngùi lòng con.

Thương Thầy, nghĩ chuyện nước non,

Trăm năm thôi chẳng…! Chẳng còn gì đâu!

Thầy đi trước, con theo sau,

Cuộc đời cũng chỉ… “cỏ khâu xanh rì”*

Khóc Thầy! Đưa tiễn Thầy đi,

Tâm hương mấy nén, lời thi mấy vần.

Bia Thầy dựng ở mộ phần,

Ghi: “Nhà Văn Hóa” ân cần khắc tâm.

 

Một học trò cũ của Thầy 1954-1958.

Nguyễn Thanh Ty 
11/12/2008

 

      *    Kể từ năm học với Thầy Nguyễn Bá Mậu đến nay đã hơn 50 năm.

       *   Nữ sĩ Tương Phố với bài thơ nổi tiếng: “Giọt lệ thu”

       *  Trăm năm nào có gì đâu,

      Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì. (Kiều) 


Khóc tiển thầy Nguyễn Bá Mậu
 
Thầy đã lánh xa chốn ám mê,
Lớp bụi phù vân cỏi đi về!
Nha Trang con phố buồn hiu hắt
Văn Hoá trường xưa khóc tái tê.
Bao năm đệ tử đường lưu lạc,
Năm tháng công thầy những đam mê!
Ai ai rồi cũng về chốn ấy
Chúc Thầy an nghĩ trọn tình quê...!
 
(Một chút hương lòng tưởng nhớ đến Thầy)
 
Vỏ Thị Hoa

Bài hoạ:
 
 
TIỄN BIỆT THẦY NGUYỄN BÁ MẬU
 
Giã biệt trần gian cõi xú mê
Giờ đây Thầy lặng lẽ đi về
Nha Thành phố cũ hồn man mác
Văn Hoá trường xưa dạ tái tê.
Dạy dỗ đàn con bao công đức
Tài bồi lũ trẻ trọn niềm mê!
Xa Thầy con khóc bao giòng lệ
Tiễn biệt Thầy yêu lạc cõi quê!
 
NXVạn

Hoạ thơ TIỄN BIỆT THẦY NGUYỄN BÁ MẬU 
 
Âm thầm từ giã cõi si mê
Sống gửi tạm thân thác trở về
Trò ngẩn ngơ ngâm câu tiễn biệt      
Thơ lưu luyến tả nỗi đau tê
Trăm năm tìm sống bên bờ giác
Một phút lìa đời khỏi bến mê
Xin tiễn đưa thầy về cực lạc
Tây Phương chốn ấy nay là quê .   
 
Hương Cao


NHỮNG NGÀY... VĂN HOÁ!
 
(Để tưởng nhớ Thầy Nguyễn Bá Mậu - Hiệu Trưởng Trường Tư Thục Văn Hoá Nha Trang)
 
  
* Người Xứ Vạn
 
 
Cuộc đời học hành lang bạt kỳ hồ của tôi chẳng biết sao tự dưng lại lọt vào Trường Tư thục Văn Hóa Nha Trang (1965) năm đệ Tứ. Chính năm này là năm bước ngoặc đã thay đổi cuộc đời đen đuổi của tôi tận gốc và cho phép tôi thực hiện được Giấc mơ Võ Tánh!
 
Trường Tư thục Văn Hóa Nha Trang ở ngay Quốc lộ 1 Sinh Trung, rất gần bến xe đò Nha Trang Ninh Hoà, phía bên kia đường về phía trái là Hãng nước đá Tuyết Mai và đối diện là xóm Rọc Rau Muống. Trường gồm những phòng trệt, từ phía ngoài nhìn vô Trường giống hình chữ L, lại thêm gian sau giống chữ I nằm song song. Phía trước trường có vài cây phượng vỹ trổ hoa mỗi dịp hè về. Hồi đó Thầy Nguyễn Bá Mậu làm Hiệu trưởng, còn Cô Mậu cũng thật là xinh đẹp. Thầy Mậu dạy ban Pháp Văn nên chúng tôi không được học (vì học ban Anh Văn) nhưng chúng tôi rất quý mến Thầy Cô Mậu rất nhiều vì Thầy là hiệu trưởng của chúng tôi. Thầy Cô rất hiền hậu và ít nói.
 
Thời chúng tôi, học sinh ngoài Giã vào đây học chỉ có chừng 5, 6 ngoe: nào Võ Tám, nào Nguyễn Dâng Triệu, nào Sơn nhỏ v.v… mà đứa nào cũng đều là con nhà khá giả, chỉ trừ tôi là khố rách áo ôm. Tất cả mấy anh em xứ Vạn đều mướn nhà trọ ở đình Sinh Trung (cạnh bến xe đò Nha Trang/Ninh Hoà) để đi học cho gần trường chớ không phải để đi tu (cái đình này giống như chỗ tu hành). Riêng tôi, bởi không có tiền nên chẳng trọ vào đâu được, đành phải theo làm cái "đuôi” xin tá túc với đám bạn này. Tụi nó thương tình nên tôi khỏi phải trả tiền thuê, còn chuyện cơm nước tính sau...
 
Đám Vạn Giã chúng tôi hầu hết vào lớp đệ Tứ ban Anh Văn. Vào đây rồi mới thấy dân Nha Trang 'ngon lành' hết sẩy, chả bù với đám học trò nhà quê như bọn tôi. Hầu hết học sinh dân NT đều thuộc tầng lớp khá giả hoặc trung lưu. Lớp chúng tôi ở phía gian sau và cuối góc. Mỗi mùa mưa nước ngập đến cửa lớp phải lội bộ bì bõm vào lớp. Quý thầy dạy chúng tôi có Thầy Nguyễn Ngân dạy Anh văn, Thầy Nguyễn Duy Nhường dạy Văn chương, có cả Thầy Ngô Đức Diễm dạy bên Pháp văn nữa…
 
Được một cái nữ sinh trong lớp có nhiều cô là người Việt gốc Hoa, có cô đẹp tựa minh tinh màn bạc... Đó là các cô Dương Ái Mai (nhà thuốc Bắc gần đường luồng PBChâu, sau thành Dược sĩ), cô Dương Lệ Quyên (đẹp như tài tử Hồng Kông), cô Dương Bạch Nga (tiệm sách Vĩnh An Thành)... Mấy cô này tuy đẹp nhưng lại học rất giỏi. Người nào cũng mặc váy đầm và áo cánh sát vai khiến lũ con trai tha hồ bàn tán... Ngoài ra còn có cô Lại - nữ sinh gốc Việt chính cống, thường mặc áo dài thướt tha nhưng lại là người có tiếng đẹp nhất trường. Chính bạn Võ Tám (xứ Vạn) mê cô này như điếu đổ!
 
Về phía đực rựa thuộc nhóm Nha Trang có các chàng Vũ Chu Nhương (nhà gần ga xe lửa NT), Nguyễn Duy Thêm (xóm Cầu Đá), Nguyễn Cao Khiết (đường Hoàng Từ Cảnh - bà con với anh chị Thủ quỹ của Trường VH), Đỗ Đình Hoà (đường Yersin - ban Pháp Văn), Lê Mau v.v... Sau này hầu hết anh em nói trên đều vào Võ Tánh (nhờ đậu cao) còn bên phía nữ có Dương Ái Mai vào Trường Nữ Trung Học NT.
 
Bản thân tôi vì không có tiền đóng học phí nên chỉ học được ở Văn Hoá chừng ba tháng, sau đó không đi học nữa, đành ở nhà trọ với bạn bè để lấy sách vở của anh em học ở Văn Hoá mang về học 'ké'. May quá! Tuy đói rã họng, nhưng được mấy thằng bạn ban cho cái “job” thơm để kiếm chút cơm ăn mỗi ngày. Nhiệm vụ là phải làm hộ bài tập cho chúng. Trời sinh cũng lạ, đói rạc gáo không có cơm ăn áo mặc mà đầu óc thì lại minh mẫn hết chỗ chê. Bài vở "ké", sách vở "ké", chỉ có ông Thầy và Bà Cô là không "ké" được thôi.
 
Thế mà nhờ trời thương, học đâu hiểu đó. Đến nổi một người đẹp nữ sinh thuộc loại giỏi nhất lớp đệ tứ Văn Hóa là Mỹ Nữ (nhà bán xe đạp ở đường Độc Lập trước Ty Thông tin) cảm động quá mang tới tận nhà trọ tặng cho nxvạn bản nhạc "Tháng 7 mưa ngâu” bảo đàn hát giùm, rồi người đẹp lại đòi chỉ giùm bài tập nữa chớ! Trong tập vở còn kèm theo một lá thư tình! Thiệt hết ý! Cũng may nhờ học 'ké' sách vở của bạn bè ở Trường Văn Hoá mà tôi trở nên 'thông minh' ra và đủ sức để đi thi lấy bằng Trung học đệ nhất cấp.
 
Viết tới mấy dòng này, xin cảm tạ ngàn lần mấy ông bạn bè xứ Vạn của tôi! Thiếu mấy bạn, người viết chắc đã tiêu dênh từ lâu rồi. Cũng xin mở thêm dấu ngoặc ở đây là mấy anh em bạn bè xứ Vạn kể trên sau này đi lính, phần lớn đã hy sinh. Xin thắp một nén nhang lòng để tưởng niệm những người bạn quá cố! Bây giờ nghĩ lại, nếu hồi đó tôi chịu khó lên gặp Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Bá Mậu để xin học bổng, biết đâu cuộc đời của tôi nay đã khá hơn chăng?
 
 
Không học bạ, không trường học, vậy mà năm 1965 cũng lò dò đi thi trung học, suýt chút nữa thì mất mạng. Buổi sáng nọ trước ngày thi một ngày, tụi tôi gồm một lô học sinh từ ngoài Giã vào Nha Trang chuẩn bị đi thi. Khi xe đò tới Lạc An (thuộc địa phận Ninh Hòa) thì bị du kích đắp mô tùm lum trên đường khiến chẳng ai dám qua vì sợ bị mìn. Sau đó họ xuất hiện bắt cả đám tụi tôi lên núi kể cả người lớn. Tôi hoảng quá vì nếu bị bắt làm du kích thì cuộc đời tôi coi như đã tàn! May sao, đi được chừng một cây số, có người bộ hành thương tình xin xỏ nên du kích thả chúng tôi ra vì thấy chúng tôi còn nhỏ, còn họ thì ở lại chịu trận. Nhờ vậy mà tụi tôi thoát nạn. Tuy nhiên chúng buộc tụi tôi phải về lại nhà chớ không được đi tiếp vô Ninh Hòa. Báo hại anh em chiều hôm đó phải quay trở lại Giã và xuống gấp bến đò Tân Mỹ để mướn ghe chạy vào NT suốt đêm.
 
 
Đêm đó, khi tàu chạy ngang mũi Lương Sơn gần Nha Trang, sóng to gió lớn nổi lên suýt chút nữa đánh úp thuyền. Ai nấy đều cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi. Rất may, sau đó mọi sự cũng trôi qua, sóng êm biển lặng trở lại, ghe tụi tôi tấp vào bãi biển NT vào đúng 5 giờ sáng. Lúc đó chỉ còn đủ thì giờ cho tôi phóng nhanh về nhà trọ của người bạn học cùng trường Văn Hoá là Phạm Theo ở cạnh xóm Lò Heo (sau đi Thiếu uý TQLC - tiểu đoàn Trâu Điên và hy sinh ở trận Mùa Hè đỏ lửa). Tôi chỉ đủ thì giờ rửa mặt qua loa rồi tức tốc chạy đến trường thi cho kịp giờ. Trong bụng không có một hột cơm mà cũng chưa có được một chữ để cầm hơi. Thế mà một chuyện lạ (miracle) đã xảy ra làm thay đổi cuộc đời tôi đến tận gốc!
 
Kỳ thi Trung học năm ấy (1965), người viết đứng đầu Trường Văn Hoá trời ạ! Nhà trường thương tình là học sinh cũ, viết tên tuổi nxvạn to thật to trên tấm vải trắng cũng thiệt là to căng ngang trước cổng trường Văn Hoá một mình một chợ cho ông đi qua bà đi lại xem khiến mình xúc động quá phát khóc! Tôi còn nhớ trước chúng tôi một năm (1964), người đậu nhất trường VH là NKÁnh cũng được nhà trường căng vải biểu dương đã làm tôi lác mắt. Không ngờ năm sau lại chính tên của thằng tôi nằm chình ình trên tấm vải căng ấy.
 
Năm ấy học trò xứ Vạn đậu được 3 người: một là anh bạn Võ Tám dân Văn Hoá, nhà ở bến xe đò Vạn Giã (mà tôi đã bỏ công dạy kèm ảnh 3 tháng hè trước khi đi thi), hai là người đẹp Ng Thị Sen đi thi ngồi phía sau tôi, và ba là nxvan. Chính cái "miracle" này đã giúp tôi thực hiện được giấc mơ làm cậu học trò Trường Võ Tánh Nha Trang.
 
Giờ đây, ghi lại những giòng này để tưởng niệm Thầy Nguyễn Bá Mậu - Vị Thầy Hiệu Trưởng kính yêu của Trường Tư thục Văn Hoá Nha trang - Một mái trường xa xưa và nổi danh từ lâu lắm, đã đào tạo biết bao nhiêu nhân tài cho đất Việt. Riêng cá nhân tôi - đó là một nơi đã từng là bệ phóng cho tôi trên bước đường cầu học./-
 
* Người Xứ Vạn



Thương nhớ Thầy Nguyễn Bá Mậu

Nguyễn Thanh Ty
 
            Sáng ngày 9 tháng 12 nẳm 2008, một anh bạn ở tận Nay Uy gửi một E-Mail báo tin: “Thầy Nguyễn Bá Mậu vừa qua đời lúc 20giờ ngày 08/12/2008 tại tư gia, thành phố Covina, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 102 tuổi. Mọi sự viếng thăm, phân ưu xin liên lạc với ái nữ của Thầy là Nguyễn Bá Tùng Diệp tại số điện thoại…”
Tôi đọc thư báo tin sự ra đi của Thầy với sự buồn bả bất chợt chứ không sững sốt ngạc nhiên chút nào.
Thầy đã hưởng trọn tuổi Trời ban một cách tròn vẹn hạnh phúc của cuộc đời.
Có bất ngờ, bàng hoàng chăng là sự ra đi đột ngột của Cô, vợ Thầy. Cô cũng là Cô giáo dạy vỡ lòng tiếng Pháp cho chúng tôi từ cái năm Đệ thất, niên khóa 1954-1955, tại trường Tương Lai, tiền thân của trường Văn Hóa sau này.
Cách đây khoảng sáu năm, khi các bạn bè tôi ở Nam Cali, cùng một lứa học Trường Văn Hóa, cùng nhau tổ chức đến thăm Thầy Cô nhân dịp Tết, tôi từ Boston gọi điện sang chúc Tết Thầy Cô thì Cô bốc phone. Khi nghe tôi xưng tên và kể lại vài kỷ niệm học với Cô, bỗng dưng Cô òa lên khóc. Nói trong tiếng khóc sụt sùi, Cô rất cảm động có những em học trò tự cái thuở nao, thuở nào cách đây hơn nửa thế kỷ vẫn còn nhớ đến Thầy Cô giáo dạy mình học mà còn nhớ cả những chút kỷ niệm ấu thời rất thân thiết như vậy. Sau đó Cô cho biết sức khoẻ Thầy Cô vẫn còn tương đối tốt, duy chỉ có Thầy giờ đã nặng tai lắm không thể nghe được điện thoại. Tôi nghe bên kia đầu giây tiếng của Cô khá lớn, lặp lại lời chúc tụng của tôi cho Thầy nghe. Tôi được nghe lại tiếng Huế trầm ấm của Thầy cám ơn tôi.
Vậy mà, chưa bao lâu sau đó, tháng Giêng năm 2003, tôi bàng hoàng nhận được tin dữ, Cô Nguyễn Bá Mậu đã giả từ cõi đời, đã về cõi Phật, chỉ sau một thời gian ngắn ngã bệnh.
Chúng tôi chỉ biết khóc thương mà tiễn linh hồn Cô về nơi vĩnh hằng, an lạc.
Cô sớm ra đi để Thầy ở lại một mình hiu quạnh, cô đơn với tuổi già. May mắn thay, Thầy còn có gia đình ái nữ thứ ba là Nguyễn bá Tùng Diệp sống bên cạnh, sớm tối chăm sóc sức khoẻ và hủ hỉ với Thầy.
Giờ đây, đến lượt Thầy nối bước theo Cô đến chốn Suối Vàng để tình nghĩa phu thê lại một nhà đoàn tụ, tình nghĩa sắt cầm cách đọan năm năm lại châu về hiệp phố ở cảnh Bồng lai.
Năm 1954, tôi học lớp Nhất ở trường Nam Tiểu học Nha Trang, cuối năm thi lấy bằng Tiểu học qua hai kỳ Écrit và Oral, đậu một cách dễ dàng. Vậy mà khi chen chân vào lớp Đệ thất, tôi bị nhiều cao thủ văn hay chữ tốt hơn tôi, đánh văng khỏi đấu trường Võ Tánh, một trường Trung học Công lập duy nhất ở Nha Trang thời bấy giờ.
Con nhà nghèo, chuyện đi học tư hồi ấy là cả một vấn đề, chẳng khác gì thời nay dưới chế độ cộng sản. Tất cả mọi cánh cửa tiến thân trên con đường công danh đều đóng chặt với kẻ nghèo.
Cha mẹ tôi thương con, sợ sau này cũng sẽ cơ cực như ông bà, nên cố gắng cho tôi đi học tư được ngày nào hay ngày ấy, mong con kiếm được chút ít chữ nghĩa đỡ cực tấm thân sau này.
Hồi đó Nha Trang chỉ bốn trường tư thôi. Khó khăn xin vào nhất là trường Bá Ninh, dành ưu tiên cho những ai có đạo Thiên Chúa. Tiếp đến là trường Bồ Đề ưu tiên cho con nhà Phật. Hai trường còn lại theo đạo trung dung, tương đối dễ vào hơn là Kim Yến và Tương Lai. Tôi không là con chiên cũng chẳng phải Phật tử nên ghi tên học lớp Đệ thất tại trường Tương Lai.
Trường Tương Lai nằm cạnh rạp xi nê Minh Châu, trên đường Công Quán (giờ là Yết Kiêu). Đối diện rạp Minh Châu là con đường Lê Lai ngắn ngũn, nối đường Công Quán và đường Nhà Thờ thành hình chữ H. Có điều ngẫu nhiên ngộ nghĩnh là đầu này là hí viện, cuối đầu kia là Thánh đường Tin Lành, nằm ở giữa là nhà văn hóa, trường Trung học tư thục Kim Yến.
Trường Tương Lai lúc đầu, Thầy Thái văn Châu làm hiệu trưởng. Thầy dạy toán rất hay, nhưng thầy nghiêm lắm, học trò trai hay gái Thầy đều phạt như nhau nên đứa nào cũng sợ Thầy một phép. Thầy có cây thước bảng, dài năm tấc, làm bằng gỗ mun, đen bóng, bốn cạnh bọc chỉ đồng, luôn để trên bàn. Chỉ ngó cây thước không thôi cũng đủ xanh máu mặt. Những anh chị dốt toán như tôi, đến giờ của Thầy thì cứ run cầm cập, trong bụng vái thầm Trời Phật độ trì cho tai qua nạn khỏi tiết học của Thầy.
Một kỷ niệm khó quên trong đời của tôi với Thầy Châu. Hôm đó, có lẽ không có Thánh Thần nào độ trì, Thầy đưa cây viết dò tên từ trên xuống dưới trong cuốn sổ điểm danh, hơn bốn chục cặp mắt ngồi ở dưới, trợn lên đưa theo sự chuyển động chầm chậm của đầu cây viết, bụng đánh lô tô, tim đập thình thịch. Vần A, B, C… phía trên đã lướt qua, cây viết đưa dần xuống phía dưới, đột ngột dừng lại ở vần T. Nhiều tên vần T lắm. Vái Trời cho Thầy đừng chấm đúng chữ T của mình. Thiên bất dung gian. Trời nào mà phù hộ cho mấy cu cậu học trò đã dốt lại lười. Trời đất quỉ thần ơi! Ngòi bút Thầy dừng đúng ở cái tên xấu xí của tôi. Thôi thì phải đành trời kêu ai nấy dạ.
Trong bầu không khí im phăng phắc, đặc như keo, nặng như chì, tiếng ruồi vo ve bay trong lớp nghe rõ mồn một, vậy mà tiếng guốc vông của tôi mang dưới chân có đóng cái móng ngựa, lượm ở bến xe ngựa chợ Đầm, cho đỡ mòn, cứ gõ cốp cốp vang lên từng tiếng theo từng bước chân ngập ngừng theo kiểu nàng Kiều “bước đi một bước giây giây lại dừng” vì sự sợ hãi cuống quýt của tôi. Cái âm thanh móng ngựa lốp cốp lúc đó sao mà nghe chát chúa vô duyên, lãng xẹt một cách kỳ dị đáng ghét. Bao nhiêu cặp mắt lúc nãy theo dõi cây viết của Thầy Châu bây giờ nhất loạt quay sang tôi, làm như chúng lần đầu nghe tiếng gõ của đôi guốc vông của tôi vậy. Người tôi mọc gai ốc khắp châu thân. Tôi mắc cỡ sượng trân cả người. Nếu được có cái lổ dưới chân cho tôi chun xuống trốn lúc này thì hay biết mấy. Thầy Châu chăm chú ngó xuống chân tôi một lúc rồi quay mặt về phía bảng đen đưa tay che miệng cười. Cử chỉ của Thầy tuy kín đáo nhưng cũng không lọt qua khỏi những đôi mắt tinh ranh của những “con ma xó” của đám quỉ ngồi phía dưới.
Bỗng một tiếng cười khúc khích nho nhỏ của ai đó nổi lên rồi như tiếng nổ dây chuyền, cả lớp cười rộ lên, Thầy Châu cũng quay xuống cười theo.
Cái không khí nặng nề lúc nãy bỗng nhiên tan biến mất hồi nào không hay.
Bài toán đại số Thầy Châu ra cho tôi hôm nay hình như phá lệ, không khó như mọi lần. Tôi cứ lẩm nhẩm trong bụng như đọc thần chú: cộng cộng thành cộng, cộng trừ thành trừ, trừ trừ thành cộng… Rốt cuộc tôi giải bài toán một cách ngon lành.
Hú hồn hôm ấy.
Thầy Châu tuy rất nghiêm và khó lúc đứng lớp, nhưng mỗi dịp Tết, chúng tôi đến nhà thăm Thầy Cô thì Thầy rất vui vẻ nói cười và coi chúng tôi như khách, đãi chúng tôi cả rượu whisky. Thầy còn khoe với chúng tôi những đóa phong lan Thầy sưu tầm được.
 Trái lại với giờ toán khô khan và lo lắng, đến giờ học Pháp văn với Thầy, Cô Nguyễn Bá Mậu cả lớp lại rất vui. Giọng Huế của Cô khoan thai, nhẹ nhàng giảng giải về nguyên tắc văn phạm của tiếng Pháp. Còn Thầy thì cho chúng tôi một bài Thème để tự ý dịch. Thầy xuống văn phòng lo việc sổ sách. Chừng nửa tiếng sau Thầy trở lại lớp, kêu một số lên kiểm tra và giải nghĩa những tiếng khó.
Thời khắc nửa giờ ấy là khoảng thời gian chúng tôi tha hồ lộng hành, giả ma, làm quỉ, nghĩa là tha hồ chạy loạn trong lớp để hỏi nhau, để nhờ tra từ điển và …đi “cóp dê”.
Niên học sau, có lẽ nhờ tiếng lành đồn xa, trường Tương Lai học trò kéo nhau đến xin học rất đông, trường không đủ chổ chứa. Tiếng gọi là trường chứ thực ra đó là một cái vi la kiểu Pháp chỉ có hai phòng, toạ lạc ngay bên hông rạp xi nê Minh Châu. Khoảng sân chơi rất hẹp, chạy dọc theo chiều dài rạp hát. Phía vách tường của rạp đối diện với hai phòng học, ông họa sĩ của rạp xi xê bày đầy các panô vẽ hình quảng cáo các phim sắp chiếu. Giờ ra chơi chúng tôi đứng xem ông họa sĩ vẻ rất hấp dẫn. Nhất là hình những cô đào xi nê phô bày mông ngực lồ lộ rất khiêu khích.
Chắc có lẽ vì cả hai lý do, trường chật và môi trường không thích hợp cho học trò (có lẽ Thầy Châu sợ học trò hư… mắt) nên Thầy bắt chước bà mẹ Mạnh Tử dọn nhà ba lần để kiếm chổ thích hợp cho con an tâm học hành, Thầy Châu dọn trường ra cạnh Quốc lộ I, xây trường mới trên đám ruộng rau muống. Bốn bề trống trãi. Xa xa về phía núi Sinh Trung là bến xe Ninh Hòa. Phía trước mặt trường, bên tay phải là hảng nước đá Tuyết Mai, bên tay trái là tiệm bán gỗ Công Hoan, có cô con gái rượu tên cũng là Tuyết Mai, Đặng thị Tuyết Mai, đang theo học tại trường.
Tuyết Mai sau này trở thành Đệ nhị phu nhân của nền Đệ nhị Cộng Hoà.
Ngôi trường mới Tương Lai khang trang vươn mình trên đám rau muống xanh rì, gồm có bốn phòng học và một văn phòng.
Thầy Thái văn Châu tánh tình phóng khoáng, không thích gò bó, lại có thú yêu hoa phong lan, tuần nào cũng phóng xe Lambretta lên tận Đà Lạt, Lâm Đồng để sưu tầm hoa rừng. Có hôm Thầy từ xứ đất đỏ trở về, chưa kịp về nhà, phải đến trường ngay cho kịp giờ lên lớp, bụi đỏ còn phủ đầy quần áo tóc tai, chiếc xe máy còn treo lủng lẳng mấy giò phong lan.
Niên khóa 1955-1956, Thầy Thái văn Châu nhường chức vụ Hiệu trưởng lại cho Thầy Nguyễn Bá Mậu để tiếp tục điều hành trường sở.
Tên trường Tương Lai đổi tên thành Văn Hóa và ngày càng phát triễn từ đó.
Trường Văn Hóa có một đội ngũ giáo sư rất nổi tiếng và có uy tín lúc bấy giờ.
Môn Việt văn: - Thầy Nguyễn Duy Nhường cũng là nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu Hán học bút hiệu Thanh Vân. - Thầy Thạch Trung Giả.
Môn Lý Hóa: - Thầy Đào Trữ
Môn Anh văn: - Thầy Nguyễn Ngân
Môn Sử địa: - Thầy Nguyễn Mậu (Sau là Dân biểu Quốc hội)
Môn Vạn Vật: - Cô Gia
Môn Pháp Văn: - Thầy và Cô Nguyễn Bá Mậu
Môn Toán: - Thầy Thái văn Châu
Trường Văn Hóa dạy học trò nổi tiếng, năm nào cũng đều có số học sinh đậu nhiều và đậu cao ở Nha Trang. Hồi ấy có kiểu quảng cáo trường rất ngộ là “sô” tên học sinh trúng tuyển, luôn cả thứ hạng, lên “băng rôn” treo trước cổng trường để cho phụ huynh thấy thành tích dạy dỗ của trường mà yên tâm gởi con mình theo học.
Tôi chỉ học bốn niên khóa mà trường có đến hai tên: Tương Lai+Văn Hóa. Đến năm Đệ tứ, 1958, tôi thi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất cấp và được tuyển thẳng vào lớp Đệ Tam trường công lập Võ Tánh.
Thầy Nguyễn Bá Mậu, người cao dong dỏng, to ngang, vai thẳng, tóc chải và dáng đi hơi giống tài tử Gary Cooper, chuyên đóng vai anh hùng cao bồi Texas, bắn súng nhanh như chớp, thần tượng xi nê của chúng tôi thời bấy giờ. Vì vậy chúng tôi thích kêu lén sau lưng Thầy là Thầy Gary Cooper hơn là kêu đúng tên thật của Thầy.
Hồi ấy tôi là một trong những học trò dốt có hạng. Nhất là môn sinh ngữ. Không biết có phải là do nhà nghèo không có tiền mua tự điển hay sách học thêm hay không nên việc học rất khó khăn. Ở xóm tôi, cả một đám nhóc hơn mười đứa đi học cũng đều giống như tôi, “mêm xốt xèn” dốt cả lũ. Không đứa nào có nỗi một cuốn tự điển Pháp Việt -Việt Pháp bỏ túi để dùng. Hay là “hát dở chê rạp chật”? Thiếu gì người cũng nghèo khó sao người ta cứ học giỏi! Trần Minh khố chuối đó sao?
Tôi ngồi bàn đầu cạnh Nguyễn Bá Vinh con trai đầu của Thầy. Ngoài bìa là Trần Duyệt. Duyệt cũng con nhà nghèo, còn nghèo hơn cả tôi nữa nên Thầy Mậu nhận làm con nuôi, đem về cho ăn ở trong nhà. Cạnh Trần Duyệt ngoài bìa cùng là Nguyễn Mạnh Tánh. (Đang ở San Jose)
Mỗi lần Thầy cho một bài để dịch từ Pháp ra Việt hay từ Việt ra Pháp là tôi cứ bấu lấy Bá Vinh. Hắn ta có tự điển. Rất khó khăn lắm hắn ta mới cho tôi mượn một lúc, bởi hắn cũng đang cần mà. Thành ra tôi cứ như con ma theo báo hắn, cứ hỏi hắn hết chữ này sang chữ khác. Riết rồi hắn nổi cáu, đẩy vở qua bên tôi để tôi “cóp dê” cho mau. Thiệt là “phẻ”. Có lẽ do được “cóp dê” nhiều quá mà tôi thành ra dốt Pháp văn chăng?
Thầy Mậu biết tỏng tôi dốt mà bài tập lúc nào cũng có điểm cao cho nên Thầy cứ lừ lừ mắt nhìn tôi nửa như dọa, nửa như chế nhạo. Có điều bài dịch từ Việt ra Pháp tôi thua Bá Vinh. Ngược lại từ Pháp ra Việt, văn tôi trôi chảy hơn nên Thầy Mậu cũng có ý phân vân chưa chắc là tôi “cóp dê” bài của Bá Vinh toàn bộ.
Trong lớp có một anh học trò rất “ma lanh” tên là Võ văn Minh, tự là Minh Móm, vì cái miệng của anh nó… móm. Thầy rất thương mà cũng rất bực anh chàng này bởi cái tính “ma lanh” của anh ta. Một bài tập Thầy vừa mới cho, trong vòng nửa giờ, thay vì thời lượng 2 giờ , anh chàng Minh đã làm xong, đem lên nộp cho Thầy rồi ngồi rung đùi chơi. Ban đầu thì Thầy Mậu rất ngạc nhiên với đứa học trò giỏi này làm bài nhanh quá, nhưng sau khi chấm bài xong, Thầy nổi giận quăng quyển tập xuống đất, bắt làm lại vì chi chít những lỗi văn phạm, nhất là cái tật hay khoe chữ. Thay vì dịch một chữ này sang tiếng Pháp thì ngoài cái chữ chính ra anh ta chua thêm đôi ba chữ khác nữa cũng đồng nghĩa ở bên cạnh.
Thầy Mậu cấm nhiều lần không được làm như thế vì vô ích, không cần thiết, nhưng chứng nào tật ấy, cái bịnh khoe chữ vẫn cứ tiếp tục để rồi bị mắng hoài, rất buồn cười.
Để giúp học trò thêm dễ dàng trong việc học tiếng Pháp, Thầy Mậu đã khổ công viết ra cuốn “Pour écrire corectment Francaise” rất ngắn gọn, dễ hiểu, học mau thuộc.

Đọc tiếp
 
  Số lượt người đọc từ 1/6/2007: 53659 visitors (144132 hits)  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free