HỌC BỔNG & TỪ THIỆN NHA TRANG KHÁNH HÒA
   
  HỌC BỔNG NHATRANG KHÁNH HOÀ
  Bài Viết Tưởng Nhớ Thầy
 

Lên mạng ngày 12/11/2008

NHỮNG BÀI VIẾT TƯỞNG NHỚ THẦY CUNG GIŨ NGUYÊN


Vĩnh biệt Thầy Cung Giũ Nguyên

NGUYỄN THÀNH THỐNG
(Nguồn gốc: Vietsciences)

Tôi không phải là học trò của thầy. Nhưng tôi vẫn gọi thầy xưng con với thầy vì sự uyên bác và tuổi tác của thầy. Tôi đã từng nghe danh của thầy từ rất lâu, nhưng mãi đến năm 1987 tên của tôi mới được vinh dự đặt bên cạnh tên của thầy khi tôi dịch cuốn Autour de la lune (Bay quanh mặt trăng) của Jules Verne, in ở Nhà xuất bản Tổng Hợp Phú Khánh. Thế rồi mãi đến những năm đầu của thập niên 90 tôi mới được gặp thầy. Câu chuyện như thế này.
Đầu năm 1990, lúc đó tôi đang là biên tập viên của Nhà xuất bản Khánh Hòa, tôi được phân công biên tập một cuốn sách dịch của tác giả Cung Giũ Nguyên. Đó là cuốn Le Fils de la Baleine, người dịch là Nguyễn Văn Hùng, tức Cung Giũ Hốt, em ruột của tác giả Cung Giũ Nguyên. Tôi đã đọc nguyên bản tiếng Pháp trước, sau mới đọc đến bản dịch. Tôi thấy khoảng cách giữa nguyên bản với bản dịch quá xa, nên tôi đã yêu cầu người dịch dịch lại, nhưng người dịch không đồng ý và đã rút bản thảo về. Một tuần sau tôi có dịp đến làm việc với một cộng tác viên rất nổi tiếng của Nhà xuất bản Khánh Hòa. Đó là Thầy Cung Giũ Nguyên.
Tôi còn nhớ rất rõ. Khi tôi gõ cửa nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang, một ông cụ trông rất khỏe mạnh, ở trần, mặt quần pijama, chân mang vớ. Tôi nghĩ trong đầu cây cổ thụ đây, nhưng tôi thắc mắc vì sao ở trần mà lại mang vớ. Về sau ông cụ mới cho biết: ở trần là để cho mát, nhưng phải mang vớ là để khỏi bị muỗi cắn chân khi ngồi làm việc. Ngay từ đầu tôi đã thoáng thấy cái nét hài hước của ông cụ, một đặc điểm mà ít người nhận ra, vì khi nói đến Cung Giũ Nguyên thì thường người ta nghĩ ngay đến một ông trưởng giả khó tính hút píp xách ba-tông đi giày tây. Ông cụ hỏi tôi: Cái gì vậy? Thưa: Con ở bên Nhà xuất bản muốn gặp thầy. Ông cụ nhìn bộ dạng của tôi rồi phán: Năm phút thôi!
Đúng là cao đạo. Nhưng không phải thế. Hôm đó tôi đã được hầu chuyện ông cụ gần hai tiếng đồng hồ. Cuối buổi ông cụ cho tôi biết sở dĩ có cái lệnh năm phút thôi kia là vì ông cụ thấy rằng quỹ thời gian của mình còn ít quá, chứ không rỗi rãi như tôi. Khi biết được danh tính của tôi, ông cụ hỏi: Có phải anh là người đã chê bản dịch của Nguyễn Văn Hùng không? Thưa: Dạ phải. Hỏi tiếp: Chê người khác mà mình có làm được không? Tôi biết mình đã nhảy lên lưng cọp rồi. Vốn có máu hung hăng của bọn trẻ tôi thưa ngay: Dạ thưa, nếu thầy đồng ý thì để con làm thử. Lệnh tiếp: Thế thì về làm đi! Đến lúc này thì tôi mới thấy mình đã lỡ dại rồi. Thì giờ đâu? Cả ngày tôi làm việc và ở lại luôn tại Nhà xuất bản, chiều mới đạp xe đạp mười cây số về Trường Trung Học Phổ Thông Hoàng Hoa Thám Diên Khánh, nơi tôi tạm trú cùng với vợ con tôi; ở đó lúc bấy giờ ban đêm điện đóm không ổn định chút nào. Thế nhưng tôi đã cố gắng tốc hành trong vòng một tháng để dịch cho xong cuốn sách của ông cụ. Và tôi đã dịch tựa sách Le Fils de la Baleine thành Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải thay vì dịch sát chữ là Người Con Trai của Cá Ông. Tôi rất hài lòng về cái tên mới này của bản dịch.
Ngoài ra tôi cũng rất khổ công nhưng hài lòng khi chuyển được những câu ca dao miền Trung cũng như những phần trích bài ca bả trạo, mà cụ đã lược dịch sang tiếng Pháp, trở lại tiếng Việt đúng với nguyên bản. Khi đến trình cho cụ bản dịch, cụ bảo hai tuần nữa quay trở lại. Nhưng một tuần sau tôi lại có dịp đến làm việc với cụ. Cụ bảo: Xem xong rồi. Thưa: Có được không ạ? Trả lời: Được. Thưa: In được không ạ? Trả lời: Được chớ!
 Thế là tôi về lo thủ tục xuất bản. Đối với Nhà xuất bản của chúng tôi thì không có gì khó khăn. Nhưng khi trình lên Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, thì tôi được biết qua Trưởng phòng biên tập, "Hay dở không cần biết sách của Cung Giũ Nguyên không được in ở Nhà xuất bản Khánh Hòa!".
Tôi vốn tánh liều mạng nên gửi bản thảo thẳng ra Nhà xuất bản Văn Học Hà Nội. Giám đốc Nhà Xuất bản Văn Học lúc bấy giờ, nhà thơ Lữ Huy Nguyên, không những đã đồng ý cho phép xuất bản mà còn viết lời giới thiệu. Còn một việc hy hữu khác nữa là ở trang bìa 3 tôi có ghi ở đầu trang: VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Bên dưới hàng tít này tôi ghi: CUNG GIŨ NGUYÊN. Giám đốc Nhà xuất bản Văn Học vẫn duyệt. Thế có nghĩa là CUNG GIŨ NGUYÊN được công nhận là nhà văn Việt Nam và tác phẩm Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải được thừa nhận là Văn Học Hiện Đại Việt Nam. Một kết quả ngoài dự định của cụ, vì sau 1975 cụ không được công nhận là nhà văn Việt Nam, trong khi thế giới vẫn công nhận cụ là một nhà văn học giả Việt Nam. Còn một mắc mứu khác đó là phần lớn các tác phẩm của cụ được viết bằng tiếng Pháp cho nên nhiều người cho rằng những tác phẩm đó không được xem là thuộc Văn Học Việt Nam. Tôi có đem việc này hỏi ý kiến của cụ thì cụ cho biết tiếng Pháp chỉ là một phương tiện diễn đạt còn nội dung vẫn là bản chất và bản sắc Việt Nam. Phần tôi thì tôi cho rằng nếu sách của cụ mà viết bằng tiếng Anh thì có lẽ Việt Nam ta đã đoạt giải Nobel về Văn Học từ lâu rồi. Tuy đã có giấy phép xuất bản từ năm 1991 nhưng mãi đến năm 1995 cuốn sách mới được in và phát hành. Lý do là vì lúc bấy giờ các cơ sở hợp tác xuất bản mà bây giờ được gọi là các công ty văn hóa không biết Cung Giũ Nguyên là ai cả; người ta lại còn thấy ngại một cuốn tiểu thuyết do một người Việt viết bằng tiếng Pháp lại được dịch trở ngược lại sang tiếng Việt. Một chuyện thấy sao lạ đời, mà lạ đời thì không ai dám mạo hiểm; ôm vào chắc là khó bán ra.
Ít ai biết được rằng tác phẩm Le Fils de la Baleine suýt được giải Goncourt của Pháp nếu không có cuộc ganh đua của các Nhà xuất bản ở Pháp. Và học giả nổi tiếng người Pháp Daniel Rops đã từng ca ngợi tác phẩm này. Phần cụ thì sau khi bản dịch được xuất bản cụ đã có lời cám ơn tôi vì theo lời cụ, tôi đã có công đưa thằng Mỗ (nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết) sau bao năm trời phiêu bạt bên Pháp bên Canada về lại Việt Nam.
Sau khi bản dịch có mặt để độc giả Việt Nam có thể đọc và biết thêm một tí về tác giả Cung Giũ Nguyên thì thầy tin tưởng khả năng của tôi hơn và thầy đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt. Tôi đã từng nói chuyện với thầy hàng giờ về nhiều vấn đề, và tôi cũng đã từng ngồi hàng giờ nghe thầy nói những suy nghĩ, những công việc thầy đã làm đang làm và sẽ làm. Tôi có thể lục tung tủ sách của thầy, một việc không ai được phép làm ngoài tôi. Thầy đã từng muốn tôi dịch cuốn Le Fils de la Baleine sang tiếng Anh. Tôi có thưa rằng tôi vốn là người cầu toàn cho nên tác phẩm đó phải do chính một dịch giả người Mỹ hoặc người Anh biết tiếng Pháp dịch thì tốt hơn.
Gần đây yêu cầu đó đã được đáp ứng. Tôi đã giới thiệu với thầy anh bạn của tôi cũng là thầy dạy Aikido của tôi, Âu Dương Di, một Việt kiều Mỹ biết tiếng Pháp đã từng sống ở Mỹ 30 năm rất quen thuộc với việc viết lách dịch thuật; ngoài ra Âu Dương Di còn là học trò cũ của thầy. Bản dịch đã hoàn thành. Nhưng rất tiếc bản dịch tài hoa và chính xác này chưa được xuất bản trước khi thầy mất. Cũng xin nói thêm tác phẩm Le Fils de la Baleine đã được dịch sang tiếng Đức từ rất sớm.
Theo tôi, công trình trước tác của Thầy Cung Giũ Nguyên thật đặc sắc và đa dạng. Le Fils de la Baleine chỉ là một tác phẩm đã được xuất bản, cho nên có ưu thế được nhiều độc giả biết tiếng Pháp thưởng thức. Có thể nói đó là một tác phẩm dễ đọc. Thầy còn có những cuốn tiểu thuyết rất Việt Nam và dễ đọc khác nhưng tiếc là chưa được chuyển sang tiếng Việt. Một cuốn khảo luận đã được xuất bản và rất nổi tiếng nhưng độc giả Việt Nam chưa có dịp đọc, đó là cuốn Volontés d'existence.
Những năm sau 1975 thầy đã tốn rất nhiều thời giờ và công sức để nhập vào máy vi tính của mình những trước tác trước đây của thầy. Ngoài ra thầy vẫn tiếp tục sáng tác. Chúng ta hãy tưởng tượng một cụ già trên chín mươi ngày đêm vẫn cặm cụi bên máy vi tính thì mới thấy được sức làm việc và gương làm việc của thầy. Đa số những tác phẩm viết sau 1975 là những trước tác viết bằng tiếng Việt, nhưng chưa được xuất bản. Có một số người đã có dịp đọc những tác phẩm này qua hình thức in photocopy lưu hành nội bộ. Nhân đây tôi cũng xin lưu ý. Có thể nói, đại tác phẩm của thầy là cuốn Le Boujoum. Theo thiển ý của tôi thì đây mới là đỉnh cao sự nghiệp của thầy. Đó là một cuốn tiểu thuyết dày hơn sáu trăm trang viết bằng tiếng Pháp sau 1975. Ban đầu thầy đã nhờ một người Pháp đánh máy, nhưng sau mấy mươi trang thì người này đã bỏ cuộc vì đọc không hiểu gì. Sau đó thầy đã tự đánh máy, khi đánh máy xong thầy đã gửi cho tôi một bản với ý muốn nhờ tôi sửa lỗi chính tả và thực tế thầy đã nhờ tôi chuyển sang tiếng Việt. Nhưng rất tiếc vì quá bận công việc, tôi đã không làm được việc này. Về sau chính thầy đã chuyển sang tiếng Việt và tác phẩm có tên là Thái Huyền đã được xuất bản ở Mỹ, nhưng chỉ được một phần. Có lẽ vì không bán được nên việc xuất bản phần hai phải dừng lại. Nguyên bản tiếng Pháp Le Boujoum đã được Cung Giũ Nguyên Center ở Mỹ xuất bản nhưng theo tôi vẫn dưới hình thức lưu hành nội bộ. Tôi đã có lần thổ lộ với thầy không biết mươi năm nữa người ta có thể đọc hiểu cuốn sách của thầy không. Nói lên điều đó tôi muốn liên tưởng đến hai tác phẩm Ulysses và Finnegans Wake của James Joyce, một thần tượng văn học của tôi. Thực tế thì lối viết của James Joyce và của Thầy Cung Giũ Nguyên rất giống nhau. Đương nhiên một bên là mộng một bên là thực có khác nhau nhưng cái thực của thầy được viết như thể là mộng.
 
Thưa thầy, con vẫn tin rằng bây giờ thầy vẫn có thể đọc được những hàng chữ này của con. Hơn hai năm nay con đã quyết tâm giảm bớt lui tới nhà thầy để rồi một năm nay con đã ngưng hẳn việc lui tới nhà thầy. Con đã nói với thầy quyết tâm này rồi. Con là một mẫu người sentimental. Con sẽ rất đau khổ khi đi ngang nhà thầy mà không còn thầy ở đó. Thế nên con phải giảm bớt đi chuyện lui tới này để may ra tình cảm của con đối với thầy sẽ xuống thang từ từ và phần nào, ngõ hầu khi thầy không còn ở nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang đó nữa thì con bớt đau khổ hơn. Hôm nay quả thực con đã thấy suy nghĩ và quyết định của con là đúng. Bài viết hôm nay chỉ có tính chất thời sự chưa phải điều con đã từng hứa với thầy là con sẽ viết một cuốn sách dày về thầy để cho người ta thấy tính chất uyên bác, nhân văn, nhân bản, sâu sắc, tài hoa, và nhất là hài hước trong tác phẩm và trong con người của thầy. Con biết người ta ngộ nhận về thầy nhiều lắm. Thầy cũng biết rằng có rất nhiều tác giả văn hoc tài ba đã không nhận được giải Nobel Văn Học. Bây giờ thì CCC (Chim Cánh Cụt cũng có nghĩa là Chưa Chịu Chết) đã chịu chết. Requiescat In Pace.
NGUYỄN THÀNH THỐNG.
(Nha Trang ngày 8/11/2008. Sau cơn mưa trời lại sáng.)



Chữ trinh còn một chút này!
 
Nguyễn Thanh Ty
       
Theo Từ điển văn học (bộ mới, NXB Thế Giới 2004): Cung giũ Nguyên là một nhà giáo dục, nhà báo, nhà văn Việt Nam. Ngoài ra ông còn có tên trong danh sách các nhà văn thế giới viết văn bằng tiếng Pháp. Tác phẩm của ông đã được các nhà xuất bản ở Pháp, Đức, Canada, Hoa Kỳ và Việt Nam phát hành. Trong đó có những tác phẩm được chú ý nhiều như, về tiếng Việt: Một người vô dụng, Nhân tình thế thái, Nợ văn chương, Những ngày phiêu bạt, Nửa gánh tang bồng, Một chuyến về…
Về tiếng Pháp, những tác phẩm nổi tiếng được thế giới biết đến nhiều vào những năm 1950-1960 như: Le fils de la Balaine, Le Domaune Maudit, tiểu luận Volontés d’existence, Le Boujoum, tập thơ Texte Profane…
(Trích Phan song Ngân )
 
 
“Trăm năm trong cõi người ta…”
 
Thầy Cung Giũ Nguyên đã đi trọn đọan đường trăm năm của “cõi người ta” vào ngày mùng 7 tháng 11 năm 2008, lúc 3giờ15 sáng, tại nhà riêng, số 60 đường Hoàng văn Thụ Nha Trang Khánh Hòa, một cách thanh thản, nhẹ nhàng.
Thầy sinh ngày 28 tháng 4 năm 1909 tại Minh Hương, Thừa Thiên, Huế. Sau khi “nợ tang bồng trăng trắng vỗ tay reo” Thầy đã bách niên viên mãn tuổi trời ban.
Thầy đã rũ sạch bụi trần ai để về nơi “Nước Nhược” sau khi lưu lại cho hậu thế, nhất là đám môn sinh của Thầy, một gia tài văn học quí hiếm và nhiều lưu luyến tiếc thương.
Về tài năng và sự cống hiến của Thầy đối với xã hội, sách vở trong nước lẫn ngoài nước trên thế giới, người ta đã ca ngợi Thầy quá nhiều rồi.
Tôi chỉ là một học trò nhỏ của Thầy từ niên khóa 1955-1956, trường tư thuc Tương Lai, lớp Đệ Thất, học Pháp văn chỉ có một năm với Thầy, chia vẹc bờ “être” chưa sạch nước cản.
Qua năm sau, học Thầy Nguyễn Bá Mậu. Tới năm Đệ Tam, vào trường Võ Tánh, học Thầy Bửu Cân.
Cho nên hôm nay, tưởng nhớ đến Thầy, tôi chỉ có vài mẫu kỷ niệm nho nhỏ mà tôi vẫn ghi nhớ trong lòng mãi không quên, xin kể lại đây như một nén tâm hương thắp lên để tiễn đưa Thầy đến nơi an nghỉ vĩnh hằng.
 
Hôm đó đang giữa giờ học, nhân viên văn phòng mang đến cho Thầy một bưu kiện. Thầy mở ra xem. Đó là những tờ quảng cáo cho cuốn sách của Thầy vừa mới in xong tại Pháp. Tờ quảng cáo in nhiều màu sắc rất đẹp trên giấy láng. Bọn nhóc chúng tôi thấy đẹp nhao nhao lên xin. Thầy vừa cười vừa phát cho mỗi đứa một tờ với lời dặn dò:
-         Giấy dầy lắm đó! Các con không dùng được đâu!
Chúng tôi không hiểu ý Thầy nói. Mặc dù chúng tôi không đọc được những gì in trên đó, nhưng tờ giấy láng có nhiều màu sắc xanh đỏ rất đẹp vẫn được chúng tôi trân trọng mang về nhà dán trên vách, trước bàn học để dành khoe với mấy đứa bạn học trong xóm, khác trường, một cách hãnh diện:
- Tờ quảng cáo sách của Thầy tao, Thầy Cung Giũ Nguyên viết truyện bằng tiếng Tây, in tận bên Tây đó mầy!
Người ta học tiếng Tây bỏ vào bụng, còn tôi học tiếng Tây lại bỏ vào “vò”. Cho nên câu vè dân gian của xóm tôi thường dùng để chế diễu mấy anh học trò dốt như tôi, rất thấm thía:
 
“Tiếng Tây anh bỏ trong vò,
Đến khi Tây hỏi lại mò không ra!”
 
Chính cái lúc gặp Tây ngoài đường hỏi chuyện, miệng cứ lúng ba lúng búng, nói chữ được chữ mất, cứ như đang ngậm hột thị, thì tôi mới hiểu ra những lời giảng dạy và câu nói của Thầy năm xưa, lúc học vỡ lòng tiếng Tây.
Và cũng hiểu được thêm rằng “être” không chỉ có nghĩa “thì là mà” mà còn nhiều nghĩa thâm sâu, triết lý của cuộc đời như “hiện hữu” của Sartre, như “bản ngã” của giáo lý nhà Phật…mà lúc ấy chúng tôi chỉ nghe như vịt nghe sấm.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một cuộc đổi đời, một nền văn hóa mới, “văn hóa xã hội chủ nghĩa” được áp đặt lên miền Nam, tất cả những giáo chức ở Nha Trang (và có lẽ khắp miền Nam!) được lệnh cơm bầu, nước giỏ đến trường Tiểu Học Tân Phước để học tập ba ngày về đường lối chủ trương của “Nhà nước cách mạng”.
Số giáo chức Nha Trang chạy vào Sài Gòn khá nhiều. Số còn lại chỉ chừng hơn vài trăm, ngồi im phăng phắt để nghe cán bộ giáo dục thuyết giảng về “sự ưu việt” của “văn hóa xã hội chủ nghĩa”.
Mấy cán bộ ngồi trên bàn chủ tọa, súng lục xề xệ bên hông, phía sau lưng có ba anh “thầy giáo ngụy” đang lăng xăng hầu trà pha nước.
Không biết họ moi ở đâu ra mấy cuốn “Đồi thông hai mộ”, “Minh tâm Bửu giám”…cứ nhá lên, nhá xuống, vừa cười nham nhở vừa phê phán:
-         Đấy! Cái thứ văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy như thế đấy!
Một trong ba cán bộ cộng sản ngồi bên trên có ông Cung Giũ Phú, ở ngoài Bắc mới vô, đang nắm giữ chức Giám đốc Khu Triễn lãm 2/4 tại Nha Trang, em ruột của Thầy Cung Giũ Nguyên.
Phía dưới đám “ngụy giáo”, Thầy Cung Giũ Nguyên ngồi hàng đầu. Suốt ba ngày, Thầy vẫn ung dung tự tại, thái độ điềm nhiên, ngồi yên lặng, miệng vẫn ngậm pipe, lơ đảng nghe lời giáo huấn của kẻ thắng trận.
Tôi ngồi sau lưng Thầy, lòng cứ bồn chồn, tâm trạng vừa ngao ngán vừa thắc thỏm không yên.
Ngao ngán cho sự đời, kẻ vô học được thời nhảy bàn độc thì ít, mà cho ba anh “giáo ngụy” điếu đóm sau lưng thì nhiều.
Kết thúc ba ngày “cải tạo tư tưởng”, làm bản “thu hoạch” để tổng kết thành tích học tập, “Ban Giảng huấn” mời Thầy Cung Giũ Nguyên đại diện cho học viên khóa học, lên phát biểu ý kiến.
Tôi tự hỏi không biết Thầy mình sẽ nói cái gì bây giờ? Nói theo chăng? – Không được! Nói nghịch lại để phản ứng chăng? - Lại càng khó. Sẽ “có vấn đề” ngay!
Trong lúc tôi đang lúng túng tìm cách để tự trả lời thì Thầy ung dung đứng dậy tại chổ, chứ không bước lên phía trên, và vẫn cứ bằng một giọng cố hữu, vừa trầm vừa chậm rãi, Thầy thong thả nói rõ từng tiếng:
- Trong ba ngày nay các ông đã nói quá nhiều rồi, quá đủ rồi, chúng tôi đâu còn có gì để nói nữa!
Nói xong, Thầy ngồi xuống và tiếp tục ngậm ống tẩu, thở khói.
Tự dưng tôi nghe hả hê trong dạ và chợt nhớ đến lời của Thầy Nguyễn Duy Nhường dạy Việt văn: “ Nghề dạy học có ba điều đáng hãnh diện. Đó là “Bần hàn bất năng di, phú quí bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất.”
Thầy Cung Giũ Nguyên của tôi đang thể hiện điều thứ ba một cách tự nhiên như ông đang hút ống vố.
 
Cách đây mấy năm, tôi nhận được một tape Video do Trung tâm CGN gửi tặng. Tôi không còn nhớ rõ là cuốn băng thu hình về buổi lễ trao học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo ở Nha Trang-Khánh Hòa hay là buổi họp mặt đầu xuân của toàn thể Thầy, Cô giáo còn lại quê nhà.
Tôi ngồi coi cuốn băng mà lòng cứ ngậm ngùi khi thấy lại hình ảnh của những người Thầy thân thương của mình giờ đây sao mà… mặc dù các Thầy Cô vẫn cười nói, vẫn vui vẻ…
Có Thầy vẫn còn tráng kiện lắm, bước đi vẫn còn mạnh mẻ, lưng vẫn còn thẳng dù tuổi đời ai cũng đã quá bảy mươi.
Hình ảnh cứ lần lượt chạy qua, sao trong thâm tâm tôi vẫn không thể nào quên được hình ảnh Từ Hải của Cụ Nguyễn Du:
“Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra chi.”
Nhưng đến đoạn Thầy Cung Giũ Nguyên được mời lên phát biểu, tôi đưa tay bấm âm lượng lớn hơn lên và chú ý lắng nghe.
Lâu lắm, kể từ ngày ấy, cái ngày mà “trời đất nổi cơn gió bụi”, tôi đã không có dịp nào gặp được Thầy nữa để nhìn lại cái cười nửa miệng của Thầy, nghe lại giọng nói “thâm trầm” của Thầy mà theo nhiều bậc trưởng thượng trong làng “nhà giáo” kể lại là “đêm nằm nghĩ lại nát bầm lá gan”.
Kể ra cũng đã ba mươi ba năm. Một phần ba đời người.
Tôi nhìn miệng Thầy nói, vẫn cái cười nửa miệng, vẫn cái giọng trầm trầm, nhưng đôi mắt hình như đã lờ đục sau đôi kính trắng.
Thầy nói rất ngắn, gọn:
- Hôm nay, trước các Thầy giáo, Cô giáo tôi xin nói về chữ trinh của nàng Kiều.
Bên dưới, tiếng các Thầy, Cô giáo cười rộ lên vui vẻ. Thầy lặng đi một chút cho tiếng cười lắng xuống rồi tiếp tục:
- Nàng Kiều sau mười lăm năm lưu lạc một kiếp phong trần, khi cả nhà được đoàn viên, Kim Trong xin nối lại tơ duyên, Kiều đã than rằng:
- “Chữ trinh còn một chút này!”
Các Thầy, Cô giáo có biết chữ trinh này nghĩa là gì không?
Nghe đến đây, bỗng dưng nước mắt tôi trào ra, không kịp ngăn lại. Một nỗi xúc động mãnh liệt vỡ òa trong tôi giống như dòng thác ngầm âm ỷ bấy lâu nay giờ bỗng được khơi nguồn. Dòng nước mạnh mẽ chảy tràn trề lênh láng trong đối mắt tôi.
Hình ảnh của Thầy Nguyên nhập nhòa trước màn ảnh ti vi không rõ nét. Tôi cứ để mặc cho nước mắt tôi tự do tuôn chảy. Tôi khóc to thành tiếng một cách ngọt ngào. Lâu lắm rồi tôi không khóc được. Nước mắt tôi đã khô cạn từ lâu.
Cám ơn Thầy Cung Giũ Nguyên. Cám ơn Thầy đã điểm đúng tâm huyệt của con. Cám ơn Thầy đã giúp con có thể khóc, có thể cười trở lại để còn đủ nghị lực đối diện với cuộc đời đầy nghiệt ngã, đau thương.
- Vâng, Thưa Thầy, con hiểu. Con nguyện theo lời Thầy mà mãi mãi giữ gìn tấm lòng trinh này.
Hôm nay Thầy đã giã từ cõi tạm, “cõi người ta”, nơi Thầy đã đến, để trở về lại quê hương vĩnh hằng.
Con xin dâng nén tâm hương và mượn mấy lời thơ của B/s Tâm Minh Lê đình Thám để tiễn đưa Thầy lên đường:
 
“ Trăm năm trước thì ta chưa có
Trăm năm sau có lại hoàn không
Cuộc đời sắc sắc không không
Trăm năm còn lại tấm lòng từ bi.”
 
Nguyễn Thanh Ty Boston 10/11/2008

Đọc tiếp trang 2

Đọc tiếp Tiểu sử
 
 
  Số lượt người đọc từ 1/6/2007: 55166 visitors (146189 hits)  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free